Bác rất quan tâm đến con trẻ
Vũ Kỳ kể

Bác Hồ yêu các cháu, hiểu các cháu, tin tưởng các cháu. Vì đó là tương lai của dân tộc. Đó là những mầm, những búp trên cành...
Tình yêu đó thấm đậm chất người.
Một sự tình cờ đầy ý nghĩa – sau ngày sinh của Bác Hồ là sắp đến Tết Thiếu nhi Quốc tế 1-6.
07 giờ ngày 27.
Bác gọi chị Thu Trà đến hỏi về tình hình có một số cháu học sinh miền Nam nghịch ngợm, quấy phá mà Bác được nghe báo cáo. Việc đó là có thật.
Nhưng Bác hỏi về khía cạnh khác: Các cô, các chú dạy dỗ thế nào? Bởi lúc ba má các cháu gửi ra ngoài Bắc thì các cháu đều ngoan và ba má các cháu đều tin tưởng ở hậu phương.
Bác nhắc phải chú ý đến việc các cháu thiếu tình cảm gia đình, phải tìm cách bù đắp.
Rồi Bác kết luận: Lỗi các cháu một phần thì lỗi của người lớn chúng ta mười phần.
Quả nhiên, sau này đưa các cháu đến với sự chăm sóc của các gia đình cán bộ khác thì các cháu đỡ hẳn chuyện gây gổ, nghịch ngợm. Phần Bác cũng nhận chăm sóc một cháu trai, hai cháu gái, con đồng chí Nguyễn Hữu Thọ, Chủ tịch Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam.
Bác luôn luôn coi
trẻ em cũng là một nhân cách, một thực thể đáng tôn trọng, chứ không chỉ đáng yêu mến.
Nhớ hồi năm 1957, một hôm Bác hỏi tôi chuyện riêng tư:
- Chú Kỳ này! Có bao giờ chú đánh con không?
Tôi ấp úng vì quả là lúc giận quá tôi cũng có đánh các cháu.
Không dám giấu Bác, tôi thú thật:
- Thưa Bác! Khi nóng giận cũng có lúc tôi đánh dọa vài roi ạ.
Bác vẫn không cao giọng, nhưng nghe thấy nghiêm khắc hơn:
- Thế là dã man đấy, chú ạ.
Tôi suy ngẫm thấy rất đúng.
Bác nhìn nhận khuyết điểm, nhược điểm của con người một cách bình tĩnh như hiểu cái lẽ tự nhiên “bàn tay có ngón dài ngón ngắn vậy”. Tấm lòng Bác mở rộng, bao dung cho tất cả…
Bác không nói trẻ em hư, không nói con người hỏng, mà nhận xét có một số chậm tiến, có một số cụ thể có lúc nào đó, ở chỗ nào đó chưa tốt, chưa hay lắm. Cái chưa hay, chưa tốt ấy cần được uốn nắn một cách chân tình và kịp thời.
Trích theo sách của Hoàng Giai: Ai yêu các nhi đồng bằng Bác Hồ Chí Minh, Nxb.Thanh niên, H.1999, tr.134-136
Bác nhớ các cháu
Đoàn Văn Luyện kể

Tháng chạp năm 1968, các dũng sĩ thiếu niên miền Nam đang học ở Tả ngạn thì có mấy chú đưa xe ô tô đến đón về Hà Nội. Luyện, Thu, Nết, Phổ, Mên, Hoà,… chưa hiểu có chuyện gì. Về thủ đô hôm trước thì năm giờ chiều ngày hôm sau có xe đến đón đi.
Vào đến sân Phủ Chủ tịch mới biết là được vào gặp Bác Hồ.
Vừa bước chân xuống xe, đã nom thấy Bác Hồ và Bác Tôn ngồi ở một cái ghế gỗ dài kê trước cửa nhà, tất cả chạy ào tới chào Bác.
Bác cháu trò chuyện với nhau. Sau đó hai Bác bảo:
- Thôi, các cháu vào ăn cơm với hai Bác!
Bữa cơm không có thịt cá gì nhiều nhưng rất ấm cúng. Các dũng sĩ thiếu niên được ngồi ăn cùng với Bác Hồ và Bác Tôn. Nết, người nhỏ quá, cái đầu chỉ lấp ló cạnh bàn, được Bác gắp thức ăn cho luôn.
Vừa ăn, bác cháu vừa nói chuyện rất vui. Ăn xong, hai Bác cho mỗi cháu một bông hồng, một quả táo, một quả lê và ba quyển sách “Người tốt, việc tốt”. Sau đó, Bác Hồ bảo:
- Các cháu lại cả đây hôn hai Bác rồi ra về.
Các dũng sĩ hôn hai Bác xong, Bác Hồ lại dặn:
- Các cháu về trường cố gắng học tập cho giỏi.
Tất cả đều rất cảm động. Đoàn Văn Luyện lên tiếng thưa với Bác:
- Thưa Bác, chúng cháu cứ tưởng hai Bác gọi các cháu về có việc cần.
Bác Hồ cười hiền từ và bảo:
- Hai Bác nhớ các cháu cho nên gọi các cháu về để hai Bác gặp hỏi chuyện.
Nghe Bác nói, Luyện và các bạn cảm động, muốn trào nước mắt. Hai Bác tuổi đã cao, trăm nghìn công việc, vậy mà hai Bác vẫn nhớ đến các cháu miền Nam. Luyện nghĩ: “Mình được ở ngoài Bắc mà hai Bác còn lo và thương như vậy, các bạn còn ở trong Nam, hai Bác còn lo và thương biết chừng nào!...”
Trích trong sách: Bác Hồ kính yêu, Nxb. Kim Đồng, H.1979, tr 151-152.
Kỷ niệm gặp Bác
Trần Thanh Pôn kể

Năm 1955, chừng 20 học sinh Việt Nam dân tộc Khơ-me và 30 học sinh của dân tộc Tây Nguyên tập kết ra Bắc có trình độ từ lớp 4 trở lên đi học ở trường trung sơ cấp sư phạm miền núi Trung ương cùng các ban học sinh dân tộc ít người ở miền Bắc. Chúng tôi được nghe nhiều tiếng nói, âm sắc khác nhau của mỗi dân tộc biểu hiện lòng yêu mến Bác Hồ bằng ngôn ngữ riêng của dân tộc mình: Book Hồ, A Cha Hồ, Ava Hồ, Giàng Hồ, Ké Hồ, Bak Hồ, Um Hồ... và lúc nào chúng tôi cũng mong được gặp Người. Năm học 1956, ước mơ được gặp Prak Hồ của chúng tôi thành sự thật. Người đi thăm lớp học, nơi ở, nhà bếp, sân chơi,... của chúng tôi. Người dặn dò:
- Các cháu là con em các dân tộc trong cả nước về đây học tập để sau này trở thành thầy cô giáo, phải đoàn kết, thương yêu nhau như anh em một nhà. Cố gắng học thật tốt để đem hiểu biết đó xây dựng quê hương mình. Các cháu phải có trách nhiệm mang ánh sáng văn hóa của Đảng về thắp sáng bản mường, buôn rẫy, phum sóc của mình…
Rồi Prak Hồ hỏi:
- Các cháu có đồng ý vậy không?
- Thưa Bác, có ạ!
Tất cả chúng tôi đồng thanh trả lời…
Năm 1957 đoàn đại biểu chính phủ In-đô-nê-xi-a sang thăm Hà Nội, giáo sinh các dân tộc ở trường chúng tôi mặc trang phục theo dân tộc mình, đón đoàn tại lễ đường Trường Đại học Y khoa Hà Nội.
Bác Hồ giới thiệu chúng tôi với tổng thống Xu-các-nô.
Rồi Người quay sang hỏi chuyện chúng tôi:
- Cháu là người dân tộc Khơ-me phải không?
- Dạ, phải!
Tôi vô cùng ngạc nhiên không hiểu tại sao Prak Hồ biết.
- Cháu học lớp mấy?
Người hỏi tiếp.
- Dạ, lớp 7 ạ!
- Nhớ ba má, quê hương miền Nam không?
- Dạ, nhớ lắm ạ!
Prak Hồ dặn:
- Cố gắng học thật giỏi để biểu hiện tấm lòng nhớ thương ba má và quê hương…
Lần ấy là lần thứ ba và cũng là lần cuối cùng chúng tôi gặp Bác. Từ đó, trong quá trình học tập cho đến khi tốt nghiệp bảo vệ thành công luận án phó tiến sĩ ở Liên Xô (1970) và mãi mãi không bao giờ tôi quên lời dặn dò của Người.
Trích trong bài đăng trên Báo Sài Gòn 19-5-1990.
Bác dạy: "phải chăm chỉ học tập"
Hiền Đức kể

Năm 1950, tôi 16 tuổi, nhưng người còn bé lắm. Từ Khu III, tôi chuyển công tác về làm liên lạc đưa công văn sang Văn phòng Phủ Chủ tịch. Hôm đó, đang chú ý nhìn một tổ chim trên cành cao, tôi bỗng thấy một Ông Cụ già ở phía trước đi lại. Thoáng trông, tôi nhận ngay ra Bác, tôi reo lên và chạy lại. Bác thân mật dẫn tôi đi về phía văn phòng. Trên đường, Bác hỏi chuyện tôi về gia đình, về công tác, về sinh hoạt và bảo tôi ở lại ăn cơm trưa.
Bấy giờ theo chính sách đào tạo và bồi dưỡng cán bộ, cơ quan chọn cử một số cán bộ trẻ ra nước ngoài học. Tôi cũng ở trong số đó. Nhưng tôi không muốn đi.
Biết được điều đó, Bác liền gọi đến và nói:
- Bây giờ có điều kiện thì phải học tập. Học tập để hiểu nhiều, biết nhiều. Có hiểu nhiều biết nhiều, mới phục vụ nhân dân tốt được.
Sau khi giảng giải và khuyên tôi đi học là cần thiết, Bác dặn:
- Đi học thì phải chịu khó, chăm chỉ học tập. Chưa hiểu thì hỏi, không được giấu dốt, đã hiểu rồi thì bảo lại cho bạn cùng hiểu.
Rồi Bác lấy cái hộp thuốc lá của Bác đưa cho tôi. Bác nói:
- Bác cho cháu cái hộp này để đựng kim chỉ, ngoài giờ học thêu, thùa, vá, may. Con gái phải biết làm những việc đó.
Tôi học sư phạm và trở thành nhà giáo. Ngày tháng qua đi rất nhanh. Nhưng những lời Bác dặn vẫn vang vọng trong lòng tôi. Tôi ra sức học tập, dạy dỗ các em. Chiếc hộp thuốc lá Bác cho, tôi giữ rất trân trọng. Nghe lời Bác dặn, tôi học may, học vá, học thêu thùa. Trong chương trình học tập của các em, tôi cũng cố gắng sắp xếp thì giờ dạy các em gái trong lớp học khâu vá. Năm nào, tôi cũng kể cho các em nghe chuyện chiếc hộp thuốc lá Bác cho. Tôi không có ý đề cao mình là đã được gặp Bác, mà muốn qua câu chuyện thật làm cho các em thêm kính yêu lãnh tụ, thêm cố gắng học tập và làm theo lời Bác dạy.
Tôi được gặp lại Bác trong một trường hợp rất đột ngột. Hôm đó, Bác đến thăm trại hè của giáo viên họp ở trường Chu Văn An. Nghe tin Bác đến thăm, cả hội trường náo nức hẳn lên. Riêng tôi thì lòng xáo động, bồn chồn đến lạ! Suốt từ ngày xa Bác ở Việt Bắc đến giờ, tôi chưa được gặp lại Bác. Không biết Bác dạo này có khỏe không? Bế con trong lòng, tôi cứ thầm mong Bác đi qua chỗ mình để được thấy Bác (Hôm đó đi họp buổi tối, tôi bế theo cả cháu bé).
Bác đến. Cả hội trường reo lên. Bác nói chuyện với chúng tôi rất vui, rất sôi nổi. Bác hoan nghênh năm học vừa qua các thầy giáo, cô giáo đã có nhiều cố gắng. Bác nói:
- Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước tiên phải có con người xã hội chủ nghĩa. Các thầy giáo, cô giáo là những người đào tạo cho Tổ quốc những con người mới. Các thầy giáo, cô giáo phải thấy nhiệm vụ đó là hết sức vinh quang nhưng cũng vô cùng nặng nề, mà mỗi người đều phải cố gắng vượt bậc mới hoàn thành được...
Bác dặn:
- Thầy giáo thì phải hiểu học trò, phải thực sự thương yêu, chăm sóc học trò. Dạy học, không chỉ dạy trên lớp mà còn phải liên hệ với gia đình, với đoàn thể.
Nói chuyện xong, Bác bước xuống bục, đi lại phía tôi. Gặp tôi, Bác hỏi:
- Cháu Đức đó à?
Tôi xúc động quá! Bao nhiêu năm rồi, bao nhiêu ngày xa cách, bao nhiêu sự việc, bao nhiêu con người... thế mà Bác còn nhớ tôi. Cổ nghẹn lại, nước mắt trào ra, mãi tôi vẫn không trả lời Bác được.
Thấy tôi bế cháu bé. Bác lại hỏi chuyện gia đình tôi và khen cháu bé khoẻ, lớn. Tôi nghĩ đến những lời Bác dặn trước kia và cái hộp thuốc lá Bác cho để đựng kim chỉ. Tôi nói với Bác:
- Thưa Bác, nghe lời Bác dạy, cháu đi học sư phạm rồi về nước dạy học, cái hộp Bác cho để đựng kim chỉ, cháu vẫn còn giữ.
Tôi định nói rất dài nhưng cổ cứ nghẹn lại không thể nào nói được nữa.
Bác hỏi tôi bây giờ đã biết khâu vá giỏi chưa và dặn tôi đã là cô giáo thì không phải chỉ có mình biết mà còn phải dạy cho học trò biết nữa.
Bác vuốt má cháu bé, con tôi, rồi nói tiếp:
- Vừa dạy học, vừa nuôi con, như thế này là giỏi, Bác khen, nhưng phải cố gắng hơn nữa.
Mười ngày sau, Phủ Chủ tịch gửi ra cho tôi bức ảnh Bác đang âu yếm vuốt má cháu bé con tôi. Đó là tấm ảnh quý nhất của cả đời tôi. Hình ảnh đó mãi mãi ở trong con tim khối óc của mẹ con tôi...